Hơn 25 năm thực hiện đường lối đổi mới của Đảng, ngành thủy sản Việt Nam nói chung và thủy sản An Giang nói riêng đã có sự phát triển vượt bậc là một trong những ngành kinh tế mũi nhọn có tốc độ tăng trưởng nhanh, đóng góp vào phát triển kinh tế và an sinh xã hội của tỉnh.
Đặc biệt hơn 10 năm qua, trong quá trình hiện đại hóa, kiên trì chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong nông nghiệp, An Giang lại tiếp tục giành thêm thắng lợi lớn đó là phát triển vượt bậc trong thủy sản nói chung, đặc biệt sản xuất, chế biến và xuất khẩu cá tra. Từ chăn nuôi nhỏ lẻ ở một số địa phương, đến nay mở rộng toàn tỉnh, từ sự có mặt ở một ít thị trường trong nước đến xuất khẩu trên thế giới, đến nay trở thành thương hiệu “cá tra Việt Nam” luôn được yêu chuộng ở hầu hết các Châu Lục.
Từ nhiều năm qua thủy sản An Giang là một trong những tỉnh dẫn đầu cả nước về sản lượng và kim ngạch xuất khẩu thủy sản, nhất là cá tra. Do đó, để thủy sản phát triển đúng định hướng và yêu cầu đặt ra, UBND tỉnh đã ban hành nhiều chủ trương chính sách, trong đó có Quy hoạch phát triển thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 và Điều chỉnh, bổ sung Quy hoạch phát triển nuôi trồng thủy sản tỉnh An Giang đến năm 2010.
Tuy nhiên, cùng với sự phát triển nhanh, bước đầu có hiệu quả, ngành thủy sản đang vấp phải những khó khăn, thách thức lớn. đó là đòi hỏi sự bền vững của môi trường sinh thái và nguồn lợi tự nhiên, sự bền vững của các vấn đề kinh tế - xã hội và các cạnh tranh gay gắt trên thị trường xuất khẩu thủy sản.
Từ những kết quả đã đạt được, đối mặt với khó khăn, thách thức, ngành thủy sản tỉnh An Giang cần phải định hướng Quy hoạch vùng sản xuất thủy sản gắn liền với ứng dụng, chuyển giao khoa học công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao vào sản xuất nhằm nâng cao năng suất, chất lượng và đặc biệt nâng cao giá trị sản xuất trên một đơn vị diện tích cũng như tiết kiệm tài nguyên, ứng phó với biến đổi khí hậu trong tương lai qua đó góp phần vào tăng trưởng kinh tế xã hội của địa phương.
Diện tích:
Theo Quyết định số 859/QĐ-UBND ngày 27/04/2006 của UBND tỉnh An Giang về việc phê duyệt điều chỉnh quy hoạch phát triển thủy sản đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020 và Quyết định số 3354/QĐ-UBND ngày 12/12/2007 của UBND tỉnh An Giang về việc phê duyệt điều chỉnh bổ sung quy hoạch phát triển thủy sản đến năm 2010 cho thấy:
Tính đến năm 2013, diện tích nuôi thồng thủy sản theo các quy hoạch nêu trên thực tế có 4 huyện đạt < 50%, cá biệt huyện An Phú chỉ đạt khoảng 15%; 06 huyện đạt từ 50 – 76%, chỉ có huyện Thoại Sơn đạt quy hoạch đã đề ra. Tuy nhiên, nhìn chung công tác quy hoạch thủy sản trong thời gian qua mặc dù chưa đạt được yêu cầu nhưng đã thành công trong các mục tiêu định tính như: đã định vị được vùng nuôi trồng thủy sản, từng bước hình thành các vùng sản xuất hoàng hóa lớn, phát triển nuôi trồng theo phương thức công nghiệp, thu hút được nhiều doanh nghiệp vào đầu tư phát triển ngành hàng và đã tạo niềm tin, an tâm sản xuất; bước đầu quan tâm đến các vấn đề xử lý nước thải trong nuôi trồng thủy sản, bảo vệ môi trường sinh thái,…
Bảng: Tổng hợp so sánh diện tích nuôi trồng thủy sản theo quy hoạch tại các thời điểm năm 2007, 2010, 2013
Diện tích |
DT nuôi |
DT nuôi |
DT nuôi |
Diện tích |
Tỷ lệ đạt |
Tỷ lệ đạt |
Tổng số (ha) |
3.038 |
2.415 |
2.496 |
4.621 |
52,3 |
54 |
Long Xuyên |
236 |
268 |
170 |
545 |
49,2 |
31,2 |
Châu Đốc |
64 |
33 |
45 |
218 |
15,1 |
20,6 |
An Phú |
78 |
92 |
98 |
644 |
14,3 |
15,2 |
Tân Châu |
279 |
217 |
230 |
299 |
72,6 |
76,9 |
Phú Tân |
329 |
227 |
271 |
522 |
43,5 |
51,9 |
Châu Phú |
470 |
404 |
538 |
918 |
44,0 |
58,6 |
Tịnh Biên |
22 |
37 |
28 |
53 |
69,8 |
52,8 |
Tri Tôn |
37 |
42 |
42 |
115 |
36,5 |
36,5 |
Châu Thành |
227 |
253 |
327 |
482 |
52,5 |
67,8 |
Chợ Mới |
367 |
303 |
324 |
425 |
71,3 |
76,2 |
Thoại Sơn |
929 |
268 |
422 |
401 |
66,8 |
105,2 |
Ghi chú: * Năm 2007 là năm có diện tích nuôi lớn nhất.
** Theo quyết định số 3354/QĐ-UBND ngày 19/12/2007.
2. Đối tượng nuôi:
Bảng 1: Tổng hợp tình hình nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2002 -2013
Chỉ tiêu |
2002 |
2003 |
2004 |
2005 |
2006 |
2007 |
2008 |
2009 |
2010 |
2011 |
2012 |
2013 |
Tổng diện tích nuôi TS (ha) |
1,788 |
1,561 |
1,896 |
1,836 |
1,909 |
3,038 |
2,777 |
2,506 |
2,415 |
1924.5 |
2.618,50 |
2.496,38 |
Trong đó: cá tra (ha) |
679,4 |
860.9 |
731.4 |
770.3 |
785.7 |
1394 |
1185 |
1118 |
999 |
960 |
1.331,10 |
1.269,25 |
Sản lượng TS (tấn) |
111599 |
151231 |
154675 |
180890 |
181952 |
263592 |
315036 |
288235 |
279774 |
295000 |
339323 |
327200 |
Trong đó: cá tra (ha) |
111157 |
150120 |
131652 |
145510 |
145421 |
216526 |
268091 |
242507 |
231071 |
267990 |
245690 |
242524 |
Năng suất (tấn/ha) |
62 |
75 |
93 |
68 |
180 |
155 |
226 |
219 |
231 |
262 |
291 |
290 |
SPCBTSXK (tấn) |
23200 |
26913 |
44000 |
54982 |
95400 |
125710 |
190300 |
130423 |
151652 |
144080 |
145592 |
170626 |
Kim ngạch XK (1.000 USD) |
66600 |
59570 |
128700 |
122323 |
224400 |
332105 |
423400 |
291510 |
341226 |
400325 |
398076 |
409837 |
Tôm càng xanh (ha) |
282 |
370 |
560 |
588 |
600 |
650 |
600 |
550 |
491 |
390 |
320 |
238 |
Sản lượng TS (tấn) |
305 |
459 |
651 |
698 |
815 |
1060 |
1297 |
1045 |
1000 |
1029 |
719 |
356 |
Năng suất (tấn/ha) |
1,08 |
1,24 |
1,16 |
1,18 |
1,35 |
1,63 |
2,16 |
1,9 |
2,03 |
2,63 |
2,25 |
1,49 |
(Nguồn: Cục Thống kê An Giang)
Trước năm 2002 đối tượng nuôi chính là: cá basa, cá tra, cá lóc bông, cá hú, cá he, ngoài ra còn có các đối tượng nuôi phụ là cá lóc, cá rô đồng, cá rô phi, cá bống tượng, cá sặc rằn, cá trê phi, cá trê lai, cá chép, cá hường.
Từ năm 2003 đến nay: đối tượng nuôi chính là cá tra, cá lóc bông, cá basa, cá hú, cá he, tôm càng xanh, cá rô phi ngoài ra còn có các đối tượng nuôi phụ là cá lóc, cá rô đồng, cá thát lác, cá trê phi, cá trê lai, cá chép, cá chim trắng, cá mè, cá hường.
Trong giai đoạn này đối tượng nuôi xuất khẩu chủ lực là: cá tra được nuôi ao, các đối tượng khác được nuôi trong ao và lồng bè chủ yếu tiêu thụ nội địa, một số đối tượng nuôi chính từ năm 2002 đến nay như sau:
* Đối với cá tra, cá basa:
Đây là một trong những đối tượng nuôi chủ lực trong phát triển nuôi trồng thủy sản của tỉnh, diện tích và sản lượng nuôi cá tra tăng dần hàng năm, đỉnh điểm diện tích đạt gần 1.400 ha với sản lượng đạt khoảng 270 ngàn tấn vào năm 2007. Từ năm 2008 đến nay diện tích nuôi cá basa, cá tra liên tục giảm và đến cuối năm 2013 chỉ còn khoảng 800 ha, nguyên nhân chủ yếu do giá cả không ổn định,… người nuôi không có lãi nên người nuôi thu hẹp dần diện tích. Phần lớn diện tích nuôi cá tra hiện nay do doanh nghiệp đầu tư theo quy trình khép kín từ nuôi đến chế biến và xuất khẩu.
* Đối với tôm càng xanh:
Đây là một trong những đối tượng nuôi chủ lực trong phát triển nuôi trồng thủy sản của tỉnh, ban đầu được triển khai nuôi tại xã Phú Thuận, huyện Thoại Sơn với vài ha, tuy nhiên diện tích tăng dần theo từng năm và phát triển mạnh nhất vào năm 2007 với 650 ha tương đương với sản lượng 1.060 tấn… Từ năm 2009 đến nay diện tích nuôi tôm càng xanh giảm liên tục đến năm 2013 chỉ còn 238 ha với sản lượng đạt khoảng 356 tấn. Nguyên nhân, do khó khăn về con giống, dịch bệnh, thời tiết, thị trường,… hiệu quả nuôi không cao nên người nuôi thu hẹp quy mô và diện tích nuôi. Tính đến nay, hình thức nuôi tôm càng xanh phổ biến vẫn là nuôi trên ruộng luân canh với cây lúa, tập trung chủ yếu ở huyện Thoại Sơn và các huyện Châu Thành, Châu Phú và Phú Tân.
* Đối với cá lóc:
Mô hình nuôi cá lóc của tỉnh đã phát triển từ nhiều năm qua, tuy nhiên mới phát triển mạnh trong những năm gần đây với hình thức nuôi trong bồn, bể… diện tích và sản lượng tăng dần qua các năm từ hơn 47 ha vào năm 2004 đến năm 2013 tăng gần gấp đôi với 93 ha và sản lượng đạt 13.019 tấn, 02 địa phương Long Xuyên và Châu Thành chiếm gần 70% sản lượng cá lóc của tỉnh. Ngoài việc bán tươi, đến nay cá lóc được đưa vào chế biến thành sản phẩm “khô cá lóc”. Hiện có nhiều cơ sở chế biến khô cá lóc ở Chợ Mới, Thoại Sơn… và tỉnh đã từng bước phát triển thương hiệu này như “khô cá lóc Chợ Mới” (nhãn hiệu tập thể, bắt đầu từ năm 2006), “khô cá lóc Thoại Sơn”. Bên cạnh tiêu thụ trong tỉnh, các sản phẩm cá lóc An Giang được tiêu thụ ở các tỉnh trong vùng ĐBSCL và Tp.HCM. Tỉnh cũng đã hỗ trợ cho các cơ sở chế biến khô cá lóc tham gia các hội chợ, quảng bá sản phẩm.
* Cá rô, cá rô phi:
Nghề nuôi cá rô, cá rô phi của tỉnh đã được nông dân nuôi nhiều dưới hình thức thâm canh hoặc bán thâm canh trong ao đất, lồng bè, trong mương hay trên ruộng lúa. Vùng nuôi phân bố rải rác dọc theo các tuyến kinh cấp I và cấp II và tập trung nhiều nhất ở các huyện Châu Thành, Châu Phú, An Phú, Tân Châu, Phú Tân chủ yếu là cá rô phi. Sản lượng nuôi cá rô, rô phi năm 2003 là 925 tấn đến năm 2013 sản lượng đạt khoảng 1.415 tấn, trong đó: lồng bè: 857 tấn. Trong những năm gần đây nhờ nghiên cứu, hoàn chỉnh quy trình sản xuất giống cá đơn tính toàn đực và nuôi thương phẩm cá rô phi Novit-4, giúp nâng cao năng suất, sản lượng và hiệu quả kinh tế cho nghề nuôi thương phẩm của tỉnh. Tuy nhiên, năng suất nuôi bình quân hiện nay vẫn còn rất thấp và nghề nuôi còn nhiều bất ổn. Do đó, để phát triển nghề nuôi cá rô, cá rô phi một cách hiệu quả và bền vững, cần giải quyết tốt vấn đề thị trường tiêu thụ và tiếp tục chọn tạo con giống có chất lượng cao và cải tiến quy trình nuôi để tăng năng suất, hạ giá thành, tăng tính cạnh tranh.
* Lươn:
Trong những năm qua, lươn chủ yếu được nuôi trong bể lót bạt, tập trung ở các huyện: Thoại Sơn, Châu Thành, Tân Châu, Châu Phú sản lượng nuôi lươn năm 2011 là 478 tấn; năm 2012 là 1.031 tấn; năm 2013 là 1.470 tấn. Tuy nhiên, thời gian gần đây đã thử nghiệm thành công mô hình nuôi Lươn đồng với mật độ cao trong bồn, bể xi măng với dạt tre, với năng suất cao 60 – 70 kg/m2, kiểm soát được các yếu tố về môi trường nước, ít tốn kém diện tích rất phù hợp với mọi người nuôi tùy vào điều kiện kinh tế của mỗi gia đình. Tuy nhiên khó khăn hiện nay do nguồn lươn giống phụ thuộc hoàn toàn vào tự nhiên, tỷ lệ hao hụt cao,… trong khi đó nguồn giống từ sinh sản nhân tạo lại ít, chi phí cao, xem đây là một thách thức cho ngành, cũng như các Viện, Trường để tạo ra nguồn giống chất lượng cao với giá thành hợp lý phục vụ cho người nuôi trong thời gian tới.
Ngoài ra, còn có một số đối tượng khác như: cá thát lát, cá điêu hồng, cá hô,… hiện đang nuôi trên địa bàn tỉnh.
3. Giống thủy sản:
3.1 Giống bản địa:
Từ những năm cuối thập niên 90, cá basa, cá hú được câu từ tự nhiện (chiều cao thân của cá từ 0,6 – 2 cm, thời gian khai thác từ tháng 5 âm lịch đến tháng 10 âm lịch hàng năm) đem về nuôi dưỡng trong các lồng bè khi đạt yêu cầu cá giống được thả vào các bè, ao nuôi thương phẩm. Giống cá tra chủ yếu được vớt từ tự nhiên dưới dạng cá bột đem lên nuôi dưỡng trong ao một thời gian, sau đó được ương lên thành cá giống để thả nuôi thương phẩm trong ao.
Từ khi nghề nuôi cá tra, cá basa phát triển phục vụ cho chế biến và xuất khẩu thì giống cá tra, basa được sinh sản nhân tạo, hoàn chỉnh quy trình,… phục vụ cho nuôi. Các loại cá khác như cá he, cá trê, cá mè vinh, cá chép, các lóc bông, cá lóc, cá rô đồng, cá rô phi, cá hường,… chủ yếu sinh sản nhân tạo và cung cấp đủ số lượng giống cho nhu cầu nuôi trong tỉnh và khu vực đồng bằng sông Cửu Long.
3.2 Giống du nhập (là giống ở các tỉnh ngoài khu vực đồng bằng sông Cửu Long, ở nước ngoài):
Hiện nay, theo kết quả thống kê chưa đầy đủ, trên địa bàn tỉnh An Giang khoảng 48 trại sản xuất, ương giống. Năng lực sản xuất khoảng 4.500 triệu con cá bột các loại/năm. Con giống thủy sản thả nuôi gồm các loại: tra, basa, lóc bông, lóc, he, hú, trê, mè vinh, ... Tình hình sản xuất và cung cấp giống cho nhu cầu nuôi trong những năm qua không ngừng tăng. Nhìn chung, nguồn cung cấp giống thủy sản toàn tỉnh không đảm bảo về chất lượng và số lượng cho nhu cầu nuôi thủy sản. Giải quyết việc thiếu giống nuôi thủy sản phải nhập giống từ các tỉnh khác trong khu vực như Đồng Tháp, Cần Thơ, Tiền Giang, Vĩnh Long, Tp.HCM.
Đối với các trại tư nhân, việc áp dụng các qui trình sản xuất giống không được tuân thủ nghiêm ngặt khoa học (chỉ chạy theo lợi nhuận kinh tế) từ khâu chọn và nuôi vỗ cá bố mẹ đến khâu sinh sản, ương nuôi cá bột, cá giống do đó dẫn đến suy thoái cá bố mẹ, chất lượng cá giống không đảm bảo (tính thích nghi môi trường kém, khả năng kháng bệnh yếu,...), cá giống hao hụt nhiều trong quá trình nuôi thương phẩm gây tổn thất kinh tế. Ngoài ra, việc trang bị máy móc ở các trại giống còn thô sơ, lạc hậu, hầu hết chất lượng con giống ở các trại sản xuất tư nhân có chất lượng không cao dẫn đến hao hụt nhiều trong quá trình nuôi. Trại giống có qui mô lớn trực thuộc Nhà nước là Trung tâm Giống Thủy sản An Giang.
4. Mô hình nuôi thủy sản:
4.1. Nuôi ao:
Đối tượng nuôi chính là cá tra, cá lóc, cá rô, tôm càng xanh, rô phi, cá trê, cá thát lát. Hiện nay, người nuôi cá đang tận dụng đất bãi bồi, đất dọc theo bờ sông Tiền, sông Hậu đào ao nuôi cá có hiệu quả kinh tế cao, chất lượng cá tốt. Song phần lớn không có hệ thống xử lý nước thải (ao lắng, xử lý nước bằng hóa chất,…) trước khi thải ra sông, điều này cũng báo động trong một vài năm tới việc ô nhiễm chất lượng nước mặt đối với sông Tiền, sông Hậu là điều không thể tránh khỏi. Do đó, cần xúc tiến nhanh các biện pháp, giải pháp xử lý ô nhiễm môi trường trong nuôi trồng thủy sản nói riêng và nuôi cá tra nói chung là hết sức cần thiết và cấp bách trong thời gian tới.
4. 2. Nuôi lồng, bè:
Đối tượng nuôi chính: hú, he, rô phi, cá lóc bông, chim trắng, điêu hồng,… Trước năm 2002, loại hình nuôi bè phát triển chủ yếu ở một số đối tượng nuôi phục vụ tiêu thụ nội địa, một số ít là xuất khẩu (cá tra, cá basa). Tuy nhiên, từ năm 2003 đến nay, số lượng lồng bè nuôi cá của tỉnh tăng mạnh trong giai đoạn 2004 - 2007, từ năm 2008 đến nay, số lượng lồng bè giảm dần chủ yếu nuôi các đối tượng phục vụ cho tiêu thụ nội địa.
Khu vực tập trung nhiều bè nhất (về số lượng lồng bè, thể tích nuôi) là khu vực ngã ba sông Châu Đốc nơi giáp ranh của các huyện An Phú (xã Đa Phước), Châu Đốc (Vĩnh Ngươn, Vĩnh Mỹ), Tân Châu (xã Châu Phong), Phú Tân (xã Mỹ Hiệp). Các khu vực bè tập trung khác (ít hơn so với khu vực trên) là Đoạn sông Hậu thuộc huyện Châu Phú (xã Khánh Hòa, Mỹ Thuận - Mỹ Phú), Đoạn sông Kênh Xáng thuộc huyện Tân Châu (xã Long An, Tân An), Đoạn sông Cái Vừng thuộc huyện Phú Tân (thuộc xã Long Sơn, Long Hòa, Phú Lâm, Phú Thạnh), Đoạn sông Hậu thuộc Mỹ Hòa Hưng - Long Xuyên (xung quanh xã Mỹ Hòa Hưng), Đoạn sông Hậu thuộc huyện Châu Thành (thuộc xã Hòa Phú I, II , xã Hòa Long), Đoạn sông Hậu thuộc xã Phước Hưng huyện An Phú, Đoạn sông Tiền khu vực thuộc xã Vĩnh Xương – Châu Đốc.
4.3. Nuôi trên ruộng lúa:
Đối tượng nuôi chủ yếu là tôm càng xanh, cá rô phi, chép, mè vinh, rô, cá lóc. Nuôi tôm chân ruộng phát triển từ năm 2000 đến nay tăng nhanh về diện tích, sản lượng nuôi. Khu vực nuôi tôm chân ruộng chủ yếu tập trung ở huyện Thoại Sơn một số vùng thuộc huyện Châu Thành, Châu Phú.
5. Sản lượng nuôi trồng thủy sản năm 2002 - 2013:
Sản lượng nuôi trồng thủy sản tăng hàng năm nếu như năm 2002 sản lượng nuôi là 111.599 tấn đến năm 2013 sản lượng nuôi là 327.200 tấn, tổng sản lượng nuôi trồng: 2002 - 2013 là 2.776.908 tấn, tốc độ tăng trưởng bình quân hàng năm là 8,02% góp phần vào tăng trưởng kinh tế xã hội chung của tỉnh (Xem bảng 1: Tổng hợp tình hình nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2002 -2013).
6. Kim ngạch xuất khẩu:
Kim ngạch xuất khẩu thủy sản (chủ yếu là cá tra) có mức tăng trưởng cao, nếu như năm 2002, sản lượng sản phẩm chế biến cá tra xuất khẩu là 23.200 tấn tương đương 66,6 triệu USD đến năm 2013 sản lượng sản phẩm chế biến cá tra xuất khẩu là170.226 tấn tương đương kim ngạch xuất khẩu 409,837 triệu USD, cá biệt năm 2008 kim ngạch xuất khẩu đạt trên 423 triệu USD. Tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu bình quân hàng năm (giai đoạn 2002-20 1 3) là 24,4% góp phần vào tăng trưởng kinh tế xã hội chung của tỉnh (Xem bảng 1: Tổng hợp tình hình nuôi trồng thủy sản giai đoạn 2002 -2013).
7. Thức ăn, vật tư phục vụ nuôi thủy sản:
1) Thức ăn tự chế:
Từ năm 2002 trở về trước:
- Khoảng 95 % sử dụng thức ăn tự chế, 5% thức ăn viên trong qui trình nuôi cá tra bằng mô hình ao.
- Khoảng 95% sử dụng thức ăn tự chế, 5% thức ăn viên trong qui trinh nuôi cá tra, cá ba sa bằng mô hình lồng bè.
- Từ năm 2002 đến năm: lượng thức ăn tự chế sử dụng trong nuôi cá (ao hầm và lồng bè) ngày càng giảm dần, trong những năm gần đầy hầu hết hộ nuôi cá sử dụng thức ăn công nghiệp với tỉ lệ > 95% thức ăn công nghiệp và < 5% thức ăn tự chế.
2) Thức ăn công nghiệp:
Hiện tại có các loại thức ăn viên là Cargill (Mỹ), Proconco (Pháp), Cataco (Việt Nam), Ocialis (Pháp), Uni-president (Đài Loan), Mỹ Trường, AFIEX, CP (Thái Lan)....
8. Phòng và trị bệnh, kỹ thuật nuôi:
8. 1. Phòng và trị bệnh:
Hiện nay, trong quá trình nuôi thủy sản (cá, tôm) xuất hiện nhiều loại bệnh gây suy yếu sức khỏe của cá và dẫn đến cá chết dần dần, đôi khi chết hàng loạt gây tổn thất lớn về kinh tế cho người nuôi thủy sản.
Các loại bệnh cá thường gặp là :
- Bệnh do vi khuẩn: Bệnh gan thận mủ, Bệnh đốm trắng, bệnh nhiêm trùng huyết, bệnh lở loét, bệnh đốm đỏ, bệnh mù mắt hay nổ mắt, bệnh nhiễm vi khuẩn.
- Bệnh ký sinh trùng: Bệnh trùng bánh xe, bệnh trùng quả dưa, bệnh sán lá gan (bệnh gạo cá), bệnh sán lá đơn chủ, bệnh giun tròn, bệnh trùng mỏ neo, bệnh rận cá, bệnh bào tử trùng.
- Bệnh dinh dưỡng: Bệnh thiếu vitamin C, bệnh thiếu một số khoáng chất, bệnh thiếu các acid amin, bệnh thiếu các vitamin.
Mặc dù công tác phòng và trị bệnh được hỗ trợ bởi cán bộ kỹ thuật cơ quan chuyên ngành, Trường Đại học Cần Thơ, Viện Nghiên Cứu Nuôi Trồng Thủy Sản II, nhưng công tác phòng và trị bệnh cá vẫn chưa đáp ứng được cho nhu cầu nuôi thủy sản do vậy dịch bệnh là một trong những yếu tố gây bất lợi cho người nuôi thủy sản.
Thuốc phòng và trị bệnh cá hiện tại có nhiều loại trên thị trường, đáp ứng đủ cho nhu cầu nuôi, với chất lượng và giá cả khác nhau giúp cho người nuôi thủy sản thuận lợi trong việc phòng trị bệnh cá.
8.2 Kỹ thuật nuôi: Đa số người nuôi thủy sản ở tỉnh có nhiều năm kinh nghiệm trong nghề nuôi cá, nhưng việc đầu tư nghiên cứu và áp dụng khoa học kỹ thuật vào nuôi trồng thủy sản còn nhiều bất cập. Vì thế, hiệu quả kinh tế chưa cao, đây là một trở ngại đối với nghề nuôi cá truyền thống ở An Giang.
9. Ứng dụng khoa học kỹ thuật vào sản xuất:
Từ năm 2000 đến nay, đã nghiên cứu và triển khai ứng dụng nhiều qui trình kỹ thuật có hiệu quả như: qui trình sinh sản nhân tạo giống cá tra, ba sa, qui trình sản xuất giống cá rô phi đơn tính toàn đực; áp dụng các quy trình sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá tra theo tiêu chuẩn Global GAP, ASC, . . . ; qui trình sản xuất giống tôm càng xanh bằng công nghệ nước xanh cải tiến và nước trong hở; nuôi Lươn đồng trong bể xi măng bằng dạt tre mật độ cao; sản xuất giống và nuôi thương phẩm cá lóc, cá sặc rằn,… Rào cản kỹ thuật, cùng với hội nhập kinh tế ngày càng sâu rộng, nhất là lĩnh vực nông nghiệp trong đó có nuôi trồng thủy sản. Do đó, việc ứng dụng các thành tựu khoa học kỹ thuật, chuyển giao công nghệ, đặc biệt là công nghệ cao, nhất là khâu sản xuất giống vào nuôi trồng thủy sản là hết sức cần thiết nhằm tạo ra năng suất cao, chất lượng vượt trội và đặc biệt tăng giá trị và tăng thu nhập cho người dân.
10. Các loại dịch vụ, lao động:
Các loại dịch vụ phổ biến trong nuôi thủy sản là dịch vụ cung cấp thức ăn nuôi thủy sản (tấm cám, cá biển,..) dịch vụ cung cấp thuốc thú y thủy sản (cửa hàng thuốc thú y thủy sản ), dịch vụ vận chuyển cá (cá giống, cá thương phẩm)...
Lao động nuôi trồng thủy sản
Năm |
2006 |
2007 |
2008 |
2009 |
2010 |
2011 |
2012 |
2013 |
Lao động NTTS (người) |
36.451 |
38.607 |
38.613 |
42.253 |
38.736 |
36.017 |
35.976 |
35.553 |
(Nguồn: Cục thống kê An Giang)
Theo điều tra thống kê thì trình độ văn hóa trung bình của người hoạt động trong ngành nuôi trồng thủy sản tương đối thấp, vì vậy cần phải chú trọng nâng cao trình độ cho phù hợp với xu hướng phát triến nuôi trồng thủy sản công nghiệp.
Nguồn tin: Sở Nông Nghiệp và Phát triển Nông Thôn An Giang
Theo Quyết định 1021/QĐ-UBND "Phê duyệt quy hoạch vùng sản xuất thủy sản ứng dụng công nghệ cao tỉnh An Giang đến năm 2020 và định hướng đến năm 2030"